GIÁO XỨ HỮU BẰNG - GIÁO PHẬN BẮC NINH
LƯỢC
SỬ LÀNG HỮU BẰNG
Lược sử làng
Hữu Bằng được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn
hình thành: 1806 – 1900
Giai đoạn
phát triển: 1900 – 1953
Giai đoạn sau
chiến tranh đông đương đến nay: 1954 – 2007
1.
Giai
đoạn hình thành:
Cách đây trên
hai thế kỷ, nơi đây là rừng rậm hoang vu, là nơi trú ngụ của chim muông cầm
thú, là đồi, gò, thung lũng đầm lầy…
Về hành
chính: nơi đây thuộc Phủ Bình tỉnh Thái Nguyên. Cuối thế kỷ XVIII, thời Cảnh
Hưng Trịnh Doanh nghiêm cấm bắt bớ người công giáo ráo riết hơn trước, họ bắt và
giết các Đạo Trưởng, Đạo Đồ. Vì thế giáo dân các làng công giáo phải trốn chạy
khắp nơi tìm chổ ẩn nấp. Thời kỳ ấy có cụ:
Phê-rô Nguyễn Văn Thìn từ vùng Bùi Chu, Nam Định. Cụ Phê-rô Nguyễn Văn Bảo,
cụ Phê-rô Nguyễn Văn Hảo, cụ Phê-rô Nguyễn Văn Thê và cụ Phê-rô Nguyễn Văn Sự từ
vùng Thạch Thất, Sơn Tây, Kim Lân Mai Châu, Sơn Tây trốn chạy đến khu rừng này ẩn
nấp để giữ gìn sự sống và duy trì đức tin.
Thời gian đầu
các cụ sinh sống rải rác ở các nơi: Trại giọi, Trại đề cho đến năm 1806, thời
Gia Long Ngũ Niên, sự đạo được nới rộng tự do hơn, các cụ cùng con cháu đến phá
trại khai hoang, lập ấp tại nơi đây gọi là Trại Bằng. Trong những khu rừng này,
hai bên trước sau đều có đầm lầy, nước đọng quanh năm và hai con song trước sau
là nơi yếm thế để chạy chốn lánh nạn. Các cụ đã làm những lều tranh, quán lá để
trú ngụ, rồi phân chia nhau đất đai ruộng vườn để làm ăn sinh sống và dành phần
đất cao ráo ở giữa để làm nhà cầu nguyện.
Từ năm Nhâm
Tuất 1802 đến năm Canh Thìn 1820 là 18 năm, Nguyễn Thế Tổ, hiệu Gia Long xưng
Hoàng Đế, giáo dân việt nam nói chung, hgiaos dân Trại Bằng nói riêng được tự
do hành đạo. Năm Ất Hợi 1825 Trại bằng có khoảng 20 hộ gia đình, khoảng 100
nhân danh. Các cụ đã cắt cử người đứng đầu để sắp xếp công việc chung. Cụ
Phê-rô Thìn được bầu là Đầu Mục, cụ Phê-rô Hảo là Thứ Mục. Sauk hi các gia đình
có nhà cửa ổn định thì các cụ tổ chức chặt tre gỗ trong rừng dựng lên một ngôi
nhà nguyện, hằng ngày các cụ tập trung con cháu về đây đọc kinh cầu nguyện.
Phần đời sống,
các cụ cùng con cháu khai phá rừng rậm thành đầm hồ, ruộng điền để cày cấy,
chăn nuôi tôm cá phục vụ nhu cầu cuộc sống.
Sự đạo đang
phát triển thì vua Gia Long băng hà vào
năm Kỷ Mão 1919. Năm Canh Thìn 1920, vua Thánh Tổ lên ngôi Hoàng đế lấy Hiệu
Minh Mạng ra bảy sắc chỉ câm đạo Công Giáo, mọi người lại phải giữ đạo âm thầm
và luôn phải chạy chốn ẩn nấp.
Năm Canh Tý
1840, Vua Minh Mạng băng hà, Tân Sửu 1841 Vua Hiến Tổ lên Ngôi Hoàng Đế hiệu là
Thiệu Trị, lại ra hai sắc chỉ cấm đạo, trị vì được bảy năm. Năm DInh Mùi 1857
Thiệu Trị Băng Hà. Dực Tông lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Tự Đức. Vua Tự Đức trị
vì từ 1847 đến 1883 là 36 năm. Trong thời gian đó Tự Đức đã ra 13 sắc chỉ cấm đạo
Công Giáo, cách gay gắt hơn là sắc lệnh ngày 30 tháng 3 năm 1851: “Quan dân ai bắt được Đạo Trưởng, dù Tây hay
Việt đều chặt làm hai liệt xuống song cách bí mật”. Vào năm 1855-1856, với ấp
họ Trại Bằng có cụ lang Phê-rô Bảo trên đường đi chữa bệnh ở vùng Đa Phúc, Bắc
Ninh, cụ đã gặp xác Cha Giu-se Sỹ bị giết trôi ở song cầu, cụ về báo dân làng
đem thuyền nan nhỏ lấy xác Cha đem về An Táng ttrong lòng Nhà Thờ Trại Bằng,
nay hãy còn tại gian Cung Thánh nhà thờ Giáo Xứ Hữu Bằng.
Sắc lệnh ngày
15 tháng 9 năm 1855: “Các cơ sở tôn giáo
như: Nhà Thờ, nhà xứ, tu viện, nhà trường công giáo đều bị đốt hoặc phá dỡ hoàn
toàn”. Ấp Trại Bằng vì ở trong rừng sâu, lại cách xa huyện lỵ nên quan quân
không để ý tới.
Cho đến sắc lệnh tháng 10 năm 1859 ác liệt
hơn: “Bắt các Đầu Mục, Thứ Mục, Trùm trưởng,
Trùm phó, quản giáo đem giam tại các tỉnh, ấp Trại Bằng có ba ông bị bắt giam tại
Thái Nguyên, một trong ba ông đã không chịu nổi đòn tra tấn đã Quá Khóa được quan
tha về, còn hai ông bị giam cầm đến khi có hòa ước Nhâm Tuất mới được tha về”.
Trong khi ba
ông bị bắt đi thì ở nhà quan quân bắt tháo dỡ nhà nguyện, thế là Trại Bằng
không còn nhà Nguyện nữa. Ngày 9 tháng 5 năm 1862 năm Nhâm Tuất, Pháp ký Hòa Ước
với triều đình nhà Nguyễn.
Năm Giáp Tý 1864, Vua Tự Đức thay đổi thái độ
với người Công Giáo Việt Nam.
-
Sắc
lệnh thứ nhất cho phép người công giáo được tụ họp thành những làng công giáo
riêng biệt, được phép có Lý Trưởng công giáo.
-
Sắc
lệnh thứ hai, Tự Đức cấm ngặt người lương nhục mạ người công giáo, không người
quấy rầy họ về những nghi lễ công giáo.
Như vậy, dến
năm Canh Ngọ 1870, các cụ lại tổ chức làm nhà Thờ tại họ Trại Bằng. Theo như
các cụ kể lại thì Nhà Thờ có chiều dài là 9 gian, mỗi gian dài 6 thước, rộng 20
thước, có sáu hang cột gỗ, lợp ngói mũi.
Theo các cụ kể
lại thì từ thời Vua Tự Đức tha đạo, Địa Phận Đông Đàng Ngoài lập xứ Yên Mỹ, từ
khi lập Xứ, có Cha về ở coi sóc bổn đạo, Ngài có đi thăm các giáo dân và các họ
lẻ, thỉnh thoảng Ngài có đến Trại Bằng thăm và dâng lễ, ban các Nhiệm Tích cho
các bổn đạo. Ngài còn hướng dẫn bổn đạo làm ăn sinh sống có khoa học kỹ thuật
hơn trước, rồi về nhân cách…
Cha xứ thấy
bà con giáo dân phải ra song gánh nước về
sinh hoạt vừa xa lại vất vả lại không hợp vệ sinh nên Ngài đã hướng dẫn và chỉ
chỗ đào giếng (Ngài thong thạo về địa lý). Giếng được đào cách tường nhà thờ về
phía đông nam độ trăm thước, sâu độ hai chục thước, rộng độ mươi thước. Giếng
làng được hoàn thành năm 1875-1876.
Ngày 16 tháng
6 năm 1883 vua Tự Đức băng hà.
Trăm năm ẩn nấp
rừng hoang
Giữ gìn sự sống
bảo toàn đức tin
Hy sinh gian
khổ giữ gìn đạo thiêng
Năm Quý Mùi
1920, ngày 29 tháng 5 năm 1883. Tòa Thánh ban sắc lệnh phân chia địa phận. Giáo
họ thuộc Giáo Xứ Yên Mỹ, Giáo Phận Bắc Ninh. Về hành chính thuộc huyện Phủ
Bình, Thái Nguyên.
Như vậy: sau
khi Vua Tự Đức băng hà, Triều đình lập Hiệp Hòa lên ngôi. Hòa ước năm Nhâm Tuất
ra đời, người công giáo được tự do giữ đạo, làm ăn sản xuất. các cụ họ Trại Bằng
ra sức khai phá rừng rậm thành đồng ruồng ao hồ. Đào thùng bẫy thú, có cụ đã bị
thú dữ ăn thịt, có cụ bị giặc tàu bắt đi mất tích, có cụ đi nộp thuế trên tỉnh
Thái Nguyên bị cướp giết hại..để có Hữu Bằng hôm nay.
Thành lập tỉnh
mới: Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập từ phần đất thuộc ba tỉnh: Sơn Tây, Thái
Nguyên và Bắc Ninh.
Năm Canh Dần,
ngày 6 tháng 1 năm 1890, Toàn quyền ĐÔng Dương ra nghị định thành lập Đạo Vĩnh
Yên. Thi hành lệnh này, ngày 20 tháng 10 năm 1890 thực dân pháp lập đạo Vĩnh
Yên gồm: Phủ Vĩnh Tường và các huyện: Bạch Hạc, Lập Thạch, Tam Dương, Yên Lạc,
Yên Lang thuộc Sơn Tây, Bình Xuyên thuộc thái Nguyên, Kim Anh Thuôc Bắc Ninh.
Khi lập huyện
Bình Xuyên, Trại Bằng có cụ Phê-rô Nguyễn Văn Ngạch là người giỏi chữ Hán nên
được mời làm quan úy huyện Bình Xuyên.
Sáu tháng
sau, ngày 12 tháng 4 năm 1891. Toàn quyền Đông Dương lại ra nghị định bãi bỏ đạo
Vĩnh Yên, đưa địa bàn thuộc đạo Vĩnh yên thuôc về Sơn Tây. Hơn 8 năm sau ngày
24 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương lại ra nghị định thành lập tỉnh
Vĩnh Yên trên cơ sở Đạo Vĩnh Yên cũ, tỉnh lỵ đặt ở Tích Sơn huyện Tam Dương. (còn nữa)
Lược ghi bởi: Joseph Hoàng
